Loại nhạc cụ : | Đàn Nguyệt |
Chất liệu : | • Gỗ |
Đàn nguyệt tức nguyệt cầm, trong Nam còn gọi là đàn kìm. Loại đàn này
có hộp đàn hình tròn như Mặt Trăng nên mới có tên là "đàn nguyệt". Theo
sách xưa thì đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây[cần dẫn
nguồn]. Sách của Phạm Đình Hổ thì ghi rằng đàn nguyệt xuất hiện ở Việt
Nam vào thế kỷ 18.
Cấu tạo
Đàn nguyệt có những bộ phận chính như sau:
- Bầu vang : Bộ phận hình tròn ống dẹt, đường kính mặt bầu 30cm, thành
bầu 6cm. Nền mặt bầu vang có bộ phận nằm phía dưới gọi là ngựa đàn (cái
thú) dùng để mắc dây. Bầu vang không có lỗ thoát âm.
- Cần đàn (hay dọc đàn) : làm bằng gỗ cứng, dài thon mảnh, bên trên gắn
10 phím đàn, trước đây chỉ có 8 phím. Những phím này khá cao, nằm xa
nhau với khoảng cách không đều nhau.
- Đầu đàn : hình lá đề, gắn phía trên cần đàn, nó có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục.
- Dây đàn : có 2 dây, trước đây làm bằng dây tơ, ngày nay thường làm
bằng dây nilon. Tuy có 4 trục đàn nhưng người ta chỉ mắc 2 dây (một dây
to một dây nhỏ). Cách chỉnh dây thay đổi tùy theo người sử dụng. Có khi 2
dây cách nhau quãng 4 đúng, có khi cách quãng năm đúng hoặc quãng bảy
hay quãng tám đúng. Song cách thông dụng nhất vẫn là lên dây theo quãng
năm đúng. Đàn nguyệt là nhạc cụ khảy dây, được dùng thường xuyên trong
ban nhạc chầu vắn, tài tử, phường bát âm và trong nhiều dàn nhạc dân tộc
khác.
Đàn nguyệt được dùng để biểu diễn các thể loại nhạc dân ca của Việt Nam.
Trong ban nhạc "Ngũ tuyệt" của nhạc thính phòng cổ truyền thì đàn
nguyệt đóng vai trò điều khiển. Bốn nhạc cụ kia trong dàn nhạc gồm có
đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn tam và ống sáo.
Đàn nguyệt cũng giữ vai trò tối trọng yếu trong nhạc chầu văn.